Scholar Hub/Chủ đề/#bệnh tuyến giáp tự miễn/
Bệnh tuyến giáp tự miễn, còn được gọi là bệnh Hashimoto hoặc tuyến giáp viêm hạch, là một căn bệnh tự miễn xảy ra khi hệ miễn dịch tấn công tuyến giáp, cơ quan ...
Bệnh tuyến giáp tự miễn, còn được gọi là bệnh Hashimoto hoặc tuyến giáp viêm hạch, là một căn bệnh tự miễn xảy ra khi hệ miễn dịch tấn công tuyến giáp, cơ quan có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các chức năng cơ bản của cơ thể thông qua hormone. Bệnh tuyến giáp tự miễn dẫn đến việc giảm hoạt động của tuyến giáp, gây ra triệu chứng như mệt mỏi, tăng cân, da khô, tóc rụng và các vấn đề về tâm trạng. Điều trị bệnh này thường bao gồm sử dụng hormone tuyến giáp nhân tạo để bổ sung hormone thiếu hụt.
Bệnh tuyến giáp tự miễn là một căn bệnh tự miễn, có nghĩa là hệ miễn dịch của cơ thể tấn công nhầm tuyến giáp, gây ra việc viêm nhiễm và tổn thương dần dần tới tuyến giáp. Nguyên nhân cụ thể của bệnh chưa được hiểu rõ, nhưng các yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng vai trò trong phát triển của bệnh.
Hệ thống miễn dịch chứa các tế bào và chất trung gian miễn dịch để bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây hại. Tuy nhiên, trong bệnh tuyến giáp tự miễn, hệ thống miễn dịch nhầm lẫn tuyến giáp với các tác nhân gây hại và tấn công chúng.
Quá trình này làm giảm khả năng của tuyến giáp sản xuất ra hormone tuyến giáp, bao gồm thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3). Hormone này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sự lưu thông của năng lượng, tốc độ trao đổi chất và tăng trưởng của các tế bào trong cơ thể.
Triệu chứng của bệnh tuyến giáp tự miễn bao gồm mệt mỏi, tăng cân, da khô và ngứa, tóc rụng, tăng bệnh lý tim mạch, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ và rối loạn tâm trạng. Một số người có thể không có triệu chứng rõ ràng ban đầu.
Để chẩn đoán bệnh tuyến giáp tự miễn, các xét nghiệm máu sẽ được thực hiện để xác định mức độ hormone tuyến giáp, chẳng hạn như TSH (hormone kích thích tuyến giáp) và T4.
Điều trị bệnh này thường bao gồm uống hormone tuyến giáp nhân tạo để thay thế hoặc bổ sung hormone thiếu hụt. Liều lượng và phương pháp điều trị sẽ được điều chỉnh tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và tình trạng bệnh của bệnh nhân.
Ngoài ra, việc duy trì một lối sống lành mạnh, bao gồm ăn uống cân bằng, tập thể dục đều đặn và giảm stress cũng có thể giúp cải thiện triệu chứng của bệnh tuyến giáp tự miễn.
Bệnh tuyến giáp tự miễn kết hợp với lupus ban đỏ hệ thống ở trẻ em: Báo cáo 2 trường hợpBệnh tuyến giáp tự miễn là nhóm bệnh bao gồm viêm tuyến giáp Hashimoto và bệnh Basedow. Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc các bệnh tuyến giáp tự miễn ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) cao hơn trong quần thể nói chung, nhưng chủ yếu các nghiên cứu này ở người lớn. Chúng tôi báo cáo 02 trường hợp trẻ nữ tuổi thiếu niên biểu hiện bướu cổ. Với đặc điểm lâm sàng của bướu giáp và các kháng thể đặc hiệu tuyến giáp, một trẻ được chẩn đoán viêm tuyến giáp Hashimoto (T3 2,49 nmol/L, FT4 12,28 pmol/L, TSH 8,51 mUI/L, anti-Tg 1417 U/mL, anti-TPO 455,7 U/mL, TRAb 0,3 U/L) và một trẻ được chẩn đoán bệnh Basedow (T3 2,83 nmol, FT4 17,16 pmol/L, TSH 0,005 mUI/L, anti-Tg 513 U/mL, anti-TPO 156 U/mL, TRAb 33,9 U/L). Mặt khác, cả hai bệnh nhân đều có giảm số lượng tiểu cầu và đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán SLE. Chúng tôi điều trị kết hợp cả bệnh lý tuyến giáp và SLE, số lượng tiểu cầu trở về bình thường. Bệnh tuyến giáp tự miễn kết hợp với lupus ban đỏ hệ thống tuy hiếm gặp ở trẻ em nhưng cần chú ý để chẩn đoán và điều trị phối hợp.
#Bệnh tuyến giáp tự miễn #viêm tuyến giáp Hashimoto #bệnh Basedow #lupus ban đỏ hệ thống #trẻ em.
BỆNH TUYẾN GIÁP TỰ MIỄN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN BẠCH BIẾN TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP.HCMMục tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh tuyến giáp tự miễn và các yếu tố liên trên bệnh nhân bạch biến tại bệnh viện Da Liễu TP.HCM từ tháng 9/2020 đến tháng 5/2021.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 120 bệnh nhân tại Bệnh viện Da Liễu TP.HCM trong thời gian nghiên cứu. Tình trạng bệnh tuyến giáp tự miễn được chẩn đoán bằng xét nghiệm chức năng tuyến giáp (TSH) và các tự kháng thể kháng tuyến giáp (TPOAb, TRAb).
Kết quả: tuổi bệnh nhân từ 4 đến 78, với nữ giới chiếm ưu thế. Tuổi khởi phát bệnh là 32,50 (KTPV: 18 – 47,75) và thời gian bệnh là 2 năm (KTPV: 0,92 – 5,00). Tỉ lệ bệnh tuyến giáp tự miễn là 7,5%, tăng tự kháng thể TPOAb và TRAb lần lượt là 20,00% và 10,83%. TPOAb có mối liên quan với các đặc điểm bệnh bạch biến: vị trí khởi phát thương tổn vùng tay, thương tổn tam sắc, diện tích tổn thương da (BSA). Đối với TRAb, có mối liên quan với các đặc điểm: giới tính và thương tổn tam sắc.
Kết luận: Tình trạng tăng tự kháng thể kháng tuyến giáp và bệnh tuyến giáp tự miễn ở bệnh nhân bạch biến trong nghiên cứu tương đồng với các nghiên cứu khác trên thế giới. Có mối liên quan giữa tình trạng tăng tự kháng thể kháng tuyến giáp với giới tính, vị trí thương tổn khởi phát vùng tay, thương tổn tam sắc, diện tích tổn thương da.
Received: 12/02/2022Revised: 15/03/2022Accepted: 19/03/2022
#bạch biến #TPOAb #TRAb #bệnh tuyến giáp tự miễn
BỆNH TUYẾN GIÁP TỰ MIỄN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN BẠCH BIẾN TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP.HCMMục tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh tuyến giáp tự miễn và các yếu tố liên trên bệnh nhân bạch biến tại bệnh viện Da Liễu TP.HCM từ tháng 9/2020 đến tháng 5/2021.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 120 bệnh nhân tại Bệnh viện Da Liễu TP.HCM trong thời gian nghiên cứu. Tình trạng bệnh tuyến giáp tự miễn được chẩn đoán bằng xét nghiệm chức năng tuyến giáp (TSH) và các tự kháng thể kháng tuyến giáp (TPOAb, TRAb).
Kết quả: tuổi bệnh nhân từ 4 đến 78, với nữ giới chiếm ưu thế. Tuổi khởi phát bệnh là 32,50 (KTPV: 18 – 47,75) và thời gian bệnh là 2 năm (KTPV: 0,92 – 5,00). Tỉ lệ bệnh tuyến giáp tự miễn là 7,5%, tăng tự kháng thể TPOAb và TRAb lần lượt là 20,00% và 10,83%. TPOAb có mối liên quan với các đặc điểm bệnh bạch biến: vị trí khởi phát thương tổn vùng tay, thương tổn tam sắc, diện tích tổn thương da (BSA). Đối với TRAb, có mối liên quan với các đặc điểm: giới tính và thương tổn tam sắc.
Kết luận: Tình trạng tăng tự kháng thể kháng tuyến giáp và bệnh tuyến giáp tự miễn ở bệnh nhân bạch biến trong nghiên cứu tương đồng với các nghiên cứu khác trên thế giới. Có mối liên quan giữa tình trạng tăng tự kháng thể kháng tuyến giáp với giới tính, vị trí thương tổn khởi phát vùng tay, thương tổn tam sắc, diện tích tổn thương da.
Received: 12/02/2022Revised: 15/03/2022Accepted: 19/03/2022
#bạch biến #TPOAb #TRAb #bệnh tuyến giáp tự miễn
Mức prolidase huyết thanh trong bệnh Graves' không có triệu chứng nhãn khoa và mối liên quan với trạng thái ôxi hóa Dịch bởi AI Journal of Endocrinological Investigation - Tập 38 - Trang 1167-1173 - 2015
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá mức prolidase huyết thanh và mối liên quan của nó với stress ôxi hóa trong bệnh tuyến giáp tự miễn (AITD). Nghiên cứu có 25 bệnh nhân bị viêm tuyến giáp Hashimoto (HT) và 25 bệnh nhân mắc bệnh Graves (GD), cùng với 27 đối chứng khỏe mạnh được tham gia. Những bệnh nhân có triệu chứng nhãn khoa Graves đã bị loại trừ khỏi nghiên cứu. Mẫu huyết thanh được thu thập trong giai đoạn euthyroid vào tháng thứ ba của điều trị. Mức prolidase huyết thanh, trạng thái chống ôxi toàn phần (TAS), stress ôxi hóa toàn phần (TOS) và mức sulfhydryl tự do toàn phần (–SH) đã được đo. Mức prolidase huyết thanh cao hơn rõ rệt ở bệnh nhân GD so với nhóm HT và nhóm đối chứng khỏe mạnh. Chỉ số stress ôxi hóa (OSI) và mức TOS của bệnh nhân GD và HT đều cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (p < 0.001, cho mỗi trường hợp), trong khi mức –SH lại thấp hơn rõ rệt (p < 0.001, cho mỗi trường hợp). Không có sự khác biệt đáng kể giữa bệnh nhân HT và nhóm đối chứng khỏe mạnh về mức độ prolidase (p = 0.580). Mức prolidase có tương quan dương với TOS và OSI và tương quan âm với –SH (r = 0.565, p = 0.003; r = 0.604, p = 0.001; r = -0.532, p = 0.006). Hoạt động prolidase huyết thanh tăng lên ở bệnh nhân GD không có triệu chứng nhãn khoa và cho thấy mối tương quan dương với các thông số stress ôxi hóa.
#bệnh Graves #prolidase huyết thanh #stress ôxi hóa #bệnh tuyến giáp tự miễn #viêm tuyến giáp Hashimoto
Hội chứng Sjögren và bệnh tuyến giáp tự miễn: Hai mặt của một đồng xu Dịch bởi AI Clinical Reviews in Allergy - Tập 56 - Trang 362-374 - 2018
Sự đồng tồn tại của hội chứng Sjögren (SS) và bệnh tuyến giáp tự miễn (AITD) đã được ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận về việc liệu sự đồng tồn tại này có nên được coi là cùng một trạng thái bệnh lý hay như là đa tự miễn. Do đó, trong nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm này, các bệnh nhân chỉ mắc SS (tức là, nguyên phát) đã được so sánh với các bệnh nhân mắc cả SS và AITD. Thêm vào đó, một cuộc thảo luận về các nghiên cứu trước đó, bao gồm những nghiên cứu về các yếu tố di truyền và môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển của cả hai tình trạng này cũng được trình bày. Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các bệnh nhân mắc AITD đều có viêm tuyến giáp Hashimoto (HT). Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi tác, giới tính, tuổi khởi phát bệnh và thời gian mắc bệnh giữa hai nhóm. Sưng hạch bạch huyết và nổi mày đay được ghi nhận thường xuyên hơn ở các bệnh nhân SS-HT so với các bệnh nhân chỉ có SS (p < 0.05). Kháng thể Anti-Ro/SSA xuất hiện nhiều hơn ở nhóm SS nguyên phát (p = 0.01). Bệnh nhân SS-HT có xu hướng báo cáo lịch sử hút thuốc dương tính hơn (p = 0.03). Biểu hiện lâm sàng của SS thay đổi nhẹ khi HT đồng hành. Mặc dù cả hai thể trạng chia sẻ các cơ chế sinh lý bệnh chung như một phần của tự miễn tautology, nhưng chúng là khác nhau về mặt bệnh lý và sự đồng tồn tại của chúng nên được hiểu là đa tự miễn. Các nghiên cứu tiếp theo dựa trên đa tự miễn sẽ cho phép thiết lập một phân loại mới cho các bệnh tự miễn.
#Hội chứng Sjögren #bệnh tuyến giáp tự miễn #viêm tuyến giáp Hashimoto #đa tự miễn #kháng thể Anti-Ro/SSA
20. Đánh giá tình trạng vi di căn hạch tiềm ẩn và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú phẫu thuật nội soi tuyến giáp qua đường miệngMục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tình trạng vi di căn hạch cổ trung tâm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú phẫu thuật nội soi tuyến giáp qua đường miệng (TOETVA) tại Khoa Ung bướu và Chăm sóc giảm nhẹ, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội với 346 bệnh nhân từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vi di căn hạch ở nhóm bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hoá phẫu thuật bằng TOETVA chiếm 39,9%, số lượng hạch vét được trung bình là 5,98 ± 4,1 (dao động 0 - 24) hạch, số lượng hạch vi di căn trung bình là 1,04 ± 1,7 (0 - 10) hạch. Viêm tuyến giáp làm tăng số lượng hạch vét được: 8,3 ± 0,7 (1 - 24) hạch. Kích thước u trên siêu âm, phân loại khối u là yếu tố nguy cơ gây tăng khả năng vi di căn hạch. Chỉ có tình trạng u xâm lấn cơ trước giáp trên đại thể làm tăng khả năng vi di căn trên 5 hạch, do đó ở những trường hợp này phẫu thuật viên có thể đưa ra chỉ định cắt toàn bộ tuyến giáp và vét hạch cổ trung tâm.
#Ung thư tuyến giáp #di căn hạch #TOETVA
Biến thể tag SNP của RNASET2 nhưng không phải biến thể CCR6 liên quan đến các bệnh tự miễn tuyến giáp ở quần thể người Hán Trung Quốc Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 16 - Trang 1-8 - 2015
Các biến thể (polymorphism) của thụ thể chemokine CC 6 (CCR6) và SNP tag RNASET2 đã được chứng minh có mối liên hệ với sự nhạy cảm đối với một số bệnh liên quan đến miễn dịch. Nghiên cứu này đã được tiến hành để xác định mối liên hệ của CCR6 và SNP tag RNASET2 với các bệnh tuyến giáp tự miễn (AITDs) trong quần thể người Hán Trung Quốc. Chúng tôi đã tuyển chọn 1061 bệnh nhân mắc AITDs, bao gồm 701 bệnh nhân mắc bệnh Graves (GD) và 360 bệnh nhân mắc viêm tuyến giáp Hashimoto (HT), cùng với 938 người khỏe mạnh để thực hiện một nghiên cứu liên kết di truyền trường hợp – đối chứng. Ba polymorphism một nucleotide đơn (SNP) của CCR6 (rs3093023/rs3093024/rs6902119) và một SNP tagging (rs9355610) trong gen RNASET2 được chọn để định gen bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase đa luồng (PCR) và phản ứng phát hiện ligase (LDR). Tần suất kiểu gen rs9355610 ở bệnh nhân GD khác biệt một cách có ý nghĩa so với nhóm đối chứng (p = 0.017). Tần suất của alen G nhỏ của rs9355610 ở bệnh nhân GD cao hơn một cách có ý nghĩa so với những người khỏe mạnh (p = 0.005, OR = 1.225, 95% CI: 1.063-1.412). Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa về kiểu gen hoặc tần suất alen của bệnh nhân HT so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Sau khi phân loại theo giới tính, tần suất của alen G nhỏ ở cả bệnh nhân GD nam và nữ đều cao hơn có ý nghĩa so với nhóm kiểm soát khỏe mạnh (p = 0.036, OR = 1.308, 95% CI: 1.017-1.684; p = 0.048, OR = 1.19, 95% CI: 1.001-1.413; tương ứng);. Hơn nữa, tần suất haplotype AT ở bệnh nhân GD thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm kiểm soát (p = 0.003) và cho thấy tác dụng bảo vệ chống lại GD (OR = 0.806, 95% CI: 0.699-0.929). Tần suất haplotype GT ở bệnh nhân GD cao hơn có ý nghĩa so với các nhóm kiểm soát (p = 0.048), cho thấy rằng GT là haplotype nguy cơ của GD (OR = 1.267, 95% CI: 1.001-1.603). Không có sự khác biệt đáng kể về tần suất alen hoặc kiểu gen của ba SNP của gen CCR6 (rs3093023/rs3093024/rs6902119) giữa bệnh nhân GD, bệnh nhân HT và nhóm đối chứng. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng SNP tag rs9355610 của gen RNASET2 có mối liên hệ tích cực với độ nhạy cảm đối với GD ở quần thể người Hán Trung Quốc. Không tìm thấy mối liên hệ nào đối với các SNP CCR6 đã kiểm tra.
#RNASET2 #CCR6 #biến thể gen #bệnh tự miễn #bệnh Graves #viêm tuyến giáp Hashimoto
Sự biến mất của tự miễn dịch tuyến giáp sau khi loại bỏ hoàn toàn các kháng nguyên tuyến giáp Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 4 - Trang 163-164 - 2014
Các bệnh tự miễn dịch tuyến giáp được đặc trưng bởi sự hiện diện của các kháng thể chống lại thyroperoxidase (TPO), thyroglobulin (Tg) và thụ thể hormone kích thích tuyến giáp (TSH-R). Nghiên cứu này đã đánh giá xem việc loại bỏ hoàn toàn các kháng nguyên tuyến giáp có thể làm giảm các dấu hiệu tự miễn dịch tuyến giáp trong máu hay không. Nghiên cứu dựa trên một đánh giá hồi cứu của các hồ sơ lâm sàng của những bệnh nhân đã được theo dõi và điều trị theo một giao thức tiêu chuẩn. 182 bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp phân biệt đã được nghiên cứu, trong đó, do đồng tồn tại của viêm tuyến giáp tự miễn dịch mãn tính, bệnh Graves hay viêm tuyến giáp tự miễn cục bộ, đều có kết quả dương tính với kháng thể anti-TPO (TPOAb), anti-Tg (TgAb) hoặc anti-TSH-R (TRAb). Trong số 182 bệnh nhân, có 151 bệnh nhân nữ và 31 bệnh nhân nam; tuổi trung bình là 39,7±13,7 tuổi, với khoảng từ 6 đến 81 tuổi. Tất cả các bệnh nhân đã được thực hiện cắt bỏ tuyến giáp toàn bộ và điều trị bằng i-ốt phóng xạ với mục đích loại bỏ mô tuyến giáp còn lại hoặc di căn. Theo dõi được thực hiện thông qua quét toàn bộ cơ thể với i-ốt phóng xạ và xác định nồng độ Tg trong máu. Thời gian theo dõi trung bình là 10,1±4,1 năm, với khoảng từ 4–20 năm. Sau điều trị bằng cắt bỏ tuyến giáp toàn bộ và i-ốt phóng xạ, đã ghi nhận sự biến mất của TgAb, TPOAb và TRAb. Thời gian trung bình để biến mất là 6,3 năm cho TPOAb và 3,0 năm cho TgAb. Sự biến mất của mô tuyến giáp và các kháng thể chống tuyến giáp có sự tương quan thống kê có ý nghĩa. Sự tồn tại của TPOAb và TgAb không bị ảnh hưởng bởi giới tính, độ tuổi và sự đồng tồn tại của viêm tuyến giáp tự miễn hoặc bệnh Graves.
#bệnh tự miễn #tuyến giáp #kháng thể #cắt bỏ tuyến giáp #điều trị i-ốt phóng xạ
ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA THẨM MỸ DA BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHMục tiêu: Khảo sát đặc điểm kinh tế-xã hội, mức độ hài lòng, mong muốn làm đẹp và một số lựa chọn khác của đối tượng đến khám và điều trị tại khoa Thẩm Mỹ Da (TMD) Bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh. Xác định một số yếu tố liên quan đến về mức độ hài lòng, mong muốn làm đẹp, và một số lựa chọn khác.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang ca trên 417 bệnh nhân độ tuổi từ 18 trở lên, đến khám và điều trị tại khoa TMD, bệnh viện Da Liễu TP.HCM, từ 07/2020 đến 10/2020. Tất cả bệnh nhân được giải thích nghiên cứu và đồng thuận tham gia nghiên cứu, sau đó được phỏng vấn theo bộ câu hỏi khảo sát được soạn sẵn.
Kết quả: Đặc trưng chung của nhóm đối tượng đến khám và điều trị tại khoa TMD là giới tính nữ (80,1%), độ tuổi 18-39 (62,8%), cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh (60,2%) với mức thu nhập hằng tháng dưới 10 triệu đồng. Quyết định đến điều trị tại khoa TMD thường do tự quyết định (60,1%) với mong muốn điều trị mờ sẹo (31,3%) và rám má (36,3%) thường gặp nhất. Mức độ hài lòng đạt 89,9%. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy nhóm tuổi và tình trạng hôn nhân là yếu tố dự đoán độc lập với nguồn ảnh hưởng quyết định tìm đến điều trị TMD và nhóm tuổi và giới tính là yếu tố dự đoán độc lập với mong muốn làm đẹp của bệnh nhân.
Kết luận: Nghiên cứu giúp khảo sát rõ các đặc điểm đặc trưng của nhóm dân số có mối quan tâm đến điều trị TMD. Kết quả nghiên cứu có thể là công cụ gợi ý giúp bác sĩ TMD nắm bắt được những kỳ vọng thật sự của bệnh nhân, giúp lựa chọn những phương pháp điều trị thích hợp tùy theo đặc điểm kinh tế-xã hội và kỳ vọng của bệnh nhân.
Thời gian nhận bài: 24/12/2021Ngày phản biện: 15/01/2022Ngày được chấp nhận: 21/01/2022
#bạch biến #TPOAb #TRAb #bệnh tuyến giáp tự miễn
49. TỶ LỆ BỆNH LÝ TUYẾN GIÁP TRÊN BỆNH NHÂN BẠCH BIẾN TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNGMục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh lý tuyến giáp trên bệnh nhân bạch biến tại Bệnh viện Da liễu Trung ương.
Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 318 bệnh nhân được chẩn đoán bạch biến tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 11/2023 đến tháng 6/2024. Các xét nghiệm TSH, FT3, FT4, TRAb, Anti-TPO và siêu âm tuyến giáp được thực hiện để đánh giá tuyến giáp. Khi kết quả xét nghiệm có bất thường, bệnh nhân được gửi khám chuyên khoa nội tiết để chẩn đoán xác định bệnh lý tuyến giáp.
Kết quả: Trong số 318 bệnh nhân, 36 bệnh nhân (11,3%) có rối loạn chức năng tuyến giáp, trong đó cường giáp (3,4%), suy giáp (7,9%). Tỷ lệ bệnh nhân có bệnh tuyến giáp kèm theo là 22%, trong đó bệnh tuyến giáp tự miễn chiếm 8,2%, bướu nhân tuyến giáp chiếm 12,9%, ung thư tuyến giáp chiếm 0,9%. Tỷ lệ tăng tự kháng thể TRAb và Anti-TPO lần lượt là 3,1% và 17,3%.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu gợi ý việc sàng lọc các bệnh lý tuyến giáp nên được khuyến cáo ở các bệnh nhân mắc bệnh bạch biến.
#Bạch biến #bệnh lý tuyến giáp #viêm tuyến giáp tự miễn #TRAb #Anti-TPO